Thứ 5, 12/12/2024 - 11:46

Trang thơ Chế Lan Viên

Chế Lan Viên tên thật Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 14/1/1920 ở Cam Lộ, Quảng Trị. Lên 7 tuổi, cả nhà chuyển vào Bình Ðịnh, bút danh Mai Lĩnh, Thạch Hãn, Thạch Mai. Năm 17 tuổi, nổi tiếng với tác phẩm Ðiêu tàn. Năm 1939, Chế Lan Viên ra Hà Nội học, vào Sài Gòn làm báo, lại về Huế dạy học. Khoảng 1942, ra Vàng sao, viết tập truyện ngắn Gai lửa. Sau Cách mạng tháng 8, làm báo Quyết thắng của Việt Minh Trung Bộ… Năm 1949, Chế Lan Viên vào Ðảng Cộng sản Việt Nam. Nhiều năm ông tham gia ban lãnh đạo Hội nhà văn Việt Nam, Ðại biểu Quốc hội các khoá 4, 5, 6, 7.

Điêu tàn (1937)  

Cái sọ người

Những sợi tơ lòng

Mộng

Điệu nhạc điên cuồng

Ngủ trong sao

Đừng quên lãng

Ta

Mồ không

Trên đường về

Đọc sách

Chiến tượng

Tạo lập

Nắng mai

Tắm trăng

Những nấm mồ

Xương khô

Đám ma

Tiếng trống

Bóng tối

Đêm tàn

Hồn trôi

Xuân về

Sông Linh

Vo lụa

Thu (I)

Máu xương

Tiết trinh

Trăng điên

Đêm xuân sầu

Đầu rơi

Xương vỡ, máu trào…

Đợi người Chiêm nữ

Xuân

Cõi ta

Đầu mênh mang

Mơ trăng

Sau Điêu tàn (1937-1947)  

Ánh sáng

Biển cả

Chết giữa mùa xuân

Chiêm quốc u sầu

Chiều chiều

Chờ ngày sum họp

Chuỗi đêm sầu

Đường đi trăm lối

Đường về nước cũ

Em bỗng đến

Hoàng hôn

Im lặng

Không đề

Khúc ca chiều

Khuya tiếng sóng

Lại thấy thời gian

Mai đã…

Một đêm sầu

Nguồn thơ của tôi

Nhớ mình

Ở đây

Rừng xuân

Say

Sôi nổi

Ta là ai?

Thơ đã mất trinh

Thời oanh liệt

Thu (II)

Thu về

Trưa đơn giản

Trứng thằn lằn

Từ đâu?

Vọng chung châu

Gửi các anh (1954)  

Bữa cơm thường ở trong bản nhỏ

Chào mừng

Cho uống thuốc

Đời xóm nhỏ

Đưa con ra trận

Gởi mẹ trong vùng giặc chiếm

Mắt anh đã thấy cả rồi

Ngủ yên đồng chí nhé

Nhớ lấy để trả thù

Những đồng chí chúng ta

Staline sống mãi

Trường Sơn

Vững lòng

Ánh sáng và phù sa (1960)

…Cái vui bây giờ

A và H

Bay ngang mặt trời

Cách chia

Cành hoa nhỏ

Cành phong lan bể

Chị văn công

Chim lượn trăm vòng

Chớ hái hoa trong bệnh viện

Cỏ nghĩa trang

Cờ đỏ mọc trên quê mẹ

Đêm ra trận

Đêm tập kết

Đêm xuân sầu

Đi ra ngoại ô

Đi thực tế

Điện và trăng

Đọc Kiều (I)

Gắn huân chương

Giữa ngày Phú Lợi

Giữa tết trồng cây

Gốc nhãn cao

Hai câu hỏi

Hoa đào nở sớm

Hoa hồng trong bệnh viện

Kết nạp Đảng trên quê mẹ

Khi đã có hướng rồi

Lá nguỵ trang

Lạ nhà

Lương mới

Mặc dù trong đêm, mặc dù trong tối

Mây và hoa

Mẹ

Một ngày thống nhất, ngày mai

Nay đã phù sa

Ngoảnh lại mùa đông

Ngoảnh lại mười lăm năm

Ngô thuốc độc ngợi ca máy chém

Ngủ rừng Lào 1952

Người đi tìm hình của nước

Nhật ký một người chữa bệnh

Nhớ Bế Văn Đàn

Nhớ Việt Bắc

Nỗi đau ngày cũ…

Ôi chị Hằng Nga cô gái Nga

Qua Hạ Long

Tàu đến

Tàu đi

Tặng An-tô-kôn-sky

Tết trung thu

Thăm bia liệt sĩ Nam Ninh

Theo tình nguyện quân qua biên giới năm 1952

Thư mùa nước lũ

Tiếng chim (I)

Tiếng hát con tàu

Tiếng hát thằng điên trong dinh Độc Lập

Tình ca ban mai

Toán

Trăng

Trên dải Trường Sơn

Trên dải Trường Sơn

Trông thư

Trưa

Từ xa rừng bản…

Vàng của lòng tin

Xa Tổ quốc

Xem ảnh

Xóm cũ

Xuất cảng trúc

Ý nghĩ mùa xuân

Hoa ngày thường – Chim báo bão (1967)

60 tuổi một nhà thơ lưu vong nước Thổ

Bé Thắm đàn

Cái hầm chông giản dị

Cảnh giác

Cây dẫn về em

Chiều

Chim vít vịt

Chùm nhỏ thơ yêu

Con cò

Con đi xơ tán xa

Con hỏi cha

Con lên Quế Võ

Con mắt Bạch Đằng, con mắt Đống Đa

Con tập nói

Con thức dậy

Cờ giặc Mỹ

Cuộc vui trong dinh Độc Lập

Cuối năm

Dậy

Đế quốc Mỹ là kẻ thù riêng của mỗi trái tim ta

Đi trong hương chùa Hương

Đức Chúa Trời của chúng mặt Xa-tăng

Đừng quên

Gửi Kiều cho em năm đánh Mỹ

Hoa những ngày thường

Không ai có thể cứu chúng mày

Làm bà mẹ ở Việt Nam

Lộc mùa xuân

Mây và hoa trên Vạn Lý Trường Thành

Nghĩ về Đảng

Nghĩ về thơ (II)

Ngọn lửa Mô-ri-xơn

Người thay đổi đời tôi, người thay đổi thơ tôi

Nhớ

Nhớ em nơi huyện nhỏ

Ở đâu, ở đâu, ở đất anh hùng

Phải có thời gian

Quả vải vào mùa

Sao chiến thắng

Sông Cầu

Suy nghĩ 1966

Tặng bạn gần gửi những bạn đang xa

Thành phố tuổi thơ

Thế đấy mà miền Nam

Thóc mới Điện Biên

Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?

Tôi đi từ… Tôi đến…

Trời đã lạnh rồi

Trước hầm Đờ Cát

 

Những bài thơ đánh giặc (1972 

Phác thảo cho một trận đánh, một bài thơ diệt Mỹ

Phản “Diễn ca” hay “Phản diện” ca về học thuyết Nich-xơn

Thời sự hè 72 – Bình luận

Đối thoại mới (1973)

Bác

Bác vẫn còn đây

Búp lộc vừng

Cành đào tiểu đội Y

Cầu vồng

Cây giữa chu kỳ

Cây mai vườn Thống Nhất

Chim ấy, rau này

Chim bao gặp mẹ

Chim biếc Vĩnh Linh

Chim con trong liễu

Chim về

Chơi chữ về ngõ Tạm Thương (tức Tạm Sương)

Chơi Yên Tử, nhớ Hoa Yên

Chuỗi thơ anh Trỗi

Dương liễu thôn

Đào

Đạp tuyết

Đặt tên con

Đọc “Bất khuất”

Đợi thư con

Hoa chùa Hương

Hoa gạo son (I)

Hoa lau trắng

Hoa mộc trong vườn Bác

Hoa quê mình

Hoa tháng ba

Hoàng thảo hoa vàng

Hồng trận địa

Im bớt màu hoa

Lặng im thì mới nghe

Liễu cũng chờ em

Lòng anh làm bến thu

Mai

Mây của hoa

Nghĩ suy 68

Nghĩ về nghề, nghĩ về thơ, nghĩ…

Nghìn rưởi ngày đêm

Nhánh đào yêu

Nich-xơn chơi hoa

Nội dung và hình thức

Rét đầu mùa nhớ người đi phía bể

Rễ… hoa

Sổ tay thơ

Sơn Mỹ

Súng bên bàn

Tặng một chiến sĩ Pathét Lào

Tặng thơ

Thăm sư cụ ngày mùa

Thời gian không đợi

Thời gian và nỗ lực

Tranh ngựa

Trăng hoả tuyến

Trận tuyến này cao hơn cả màu da

Trở về Quảng Bá

Trung thu 69

Tu hú

Tuỳ bút một mùa xuân đánh giặc

Tuyên bố của mỗi lòng người, khẩu súng, cành hoa

Từ đất đến bình

Vừa thấy môi hoa

Vườn mẹ không hoa

Xuân 68 gửi miền Nam Tổ quốc

Xuân vĩnh viễn

Hoa trước lăng Người (1976)  

Bể và Người

Cách mạng, chương đầu

Di chúc của Người

Đọc văn Người

Giờ phút chót

Lộc của đời

Ném thừng

Nếu quên thanh gươm ta chẳng hiểu Người

Thấy từ lúc ấy

Tiếng khóc đúc Việt Nam thành một khối

Trận đánh của tình thương

Trong lăng và ở bên ngoài

Hái theo mùa (1977)  

Anh ấy tên Đào

Biện chứng

Bướm Trường Sơn

Các anh xưa

Canh cá tràu

Cành mai ở chốt

Cây và bóng

Chân trời

Chơi với sư

Dây thép gai

Dọc đường

Đến con trẻ cũng lưu đầy ư, nước Mỹ?

Đi giữa mùa xuân

Đọc Kiều (II)

Đói

Gió mùa đông bắc

Giống quê ta

Gửi Nguyễn Du

Gửi nhà thơ lớn Chi-lê: Pa-lơ-lô Nê-ru-đa

Hai bờ Bến Hải

Hai danh hiệu

Hai giây

Hầm rượu nho

Hoa đại đỏ

Hoa gạo son (II)

Hoa hoài trên đảo Long Châu

Hoa súng hồng

Hoa súng tím

Hoa trong vườn mẹ

Hương lúa hương rừng

Hương lúa vào chùa

Hương trái đất

Kém mắt

Làm Hăm-let ở Việt Nam

Lời ru tháng chạp

Lửa rừng

Nếu

Ngày vĩ đại

Nghe sóng

Nhắn Tô Đông Pha

Pháo binh

Pho, tên mẹ mìn của thế kỷ hai mươi

Quá nửa đường

Quê và hương sơ tán

Ra hoa và đậu củ

Rừng Cúc Phương

Sau cơn bom, hoa sữa

Tằm và nhện

Tặng Việt kiều về nước

Tấn kịch

Tập qua hàng

Thà nó cứ là thằng mất dạy

Thỏ thẻ hoà bình

Thống kê ở ga Yên Viên

Thơ bổ sung

Tiếng bom

Tiếng chim (II)

Tiếng cười năm đói

Tiếng gọi

Tiếng mùa xuân

Tìm lại ra mình

Tóc mẹ

Trang giấy

Trận đánh

Tự trách mình

Tương quan

Và ong

Vào chùa

Vào lịch sử

Vẫn cành mai ấy

Vịt trời Hồ Tây

Vòng cườm trên cổ chim cu

Vườn mẹ

Xã viên

Xe sợi

Hoa cho đá I (1984)

Cành đào Nguyễn Huệ

Chia

Côn Sơn

Dã tràng có ích

Lau biên giới

Lăm vông

Múa bên chùa cổ

Nghe hết câu chèo

Người thợ chạm

Phía ấy

Sen Huế

Thơ bình phương – đời lập phương

Tiếng cuốc kêu ở Điện Biên

Trở lại An Nhơn

Tứ tuyệt

Ta gửi cho mình (1986)

Bay theo đường dân tộc đang bay

Cháo vịt

Mình và ta

Nghĩ thêm về Nguyễn

Vọng phu (1)

Hoa trên đá II (1988) 

Bình đựng lệ

Bộ ba

Cờ

Cờ lau Đinh Bộ Lĩnh

Đo

Gửi trạng Thông họ Hoàng

Ích gì?

Kỷ niệm Nguyễn Du

Lệ hồi âm

Lộn trái

Nhà không trần

Tháp Bay-on bốn mặt

Thời gian nước xiết

Tu hú có cần đâu?

Vọng phu (2)

Xâu kim

Dị cảo

Phần I – Những bài đã hoàn chỉnh (1992) 

Chị Ba

Chính uỷ

Chung một bóng đèn

Đảo nhớ đất liền

Đằng nào cũng vậy

Gội tóc nơi trọng điểm

Khách lấy hàng

Mưa đêm

Ngủ rừng

Rét đầu mùa

Sa mạc

Tiếng ve

Tuổi già làm thơ tứ tuyệt

Vô thần

Phần II – Các bài mới ở dạng phác thảo (1993) 

Bến Lú – sông Tương

Cho em

Cô Tấm

Đạo diễn

Đất nước ta

Đến ngày

Định nghĩa dân tộc

Đông Kisốt

Đừng ngăn cản

Hai chiều

Hai thứ tiếng

Hái trên trời

Hỏi? Đáp

Hương sen

Lên gác

Lò thiêu

Một người thường

Nai bất tử

Ngàn lau

Ngày trống không

Người mai sau

Nhiệm vụ

Quên

Sao (1)

Sao (2)

Từ thế chi ca (I)

Từ thế chi ca (II)

Về quê cũ

 

Phần III – Nghĩ về thơ và nghĩ ngoài thơ (phác thảo, 1996)

Ai? Tôi!

Ảo tưởng

Ấy

Ba lần

Các mùa hoa

Chơi

Chuyến xe

Con nhặng xanh

Cờ đỏ sao vàng

Giàn hoả

Giếng

Gió lật lá sen hồ

Giọng trầm

Giờ báo tử

Hạt gạo

Họ

Hồi ký bên trang viết

Kịch (2)

Lừa

Mèo chuột

Người nữ tử tù đan áo

Nợ

Pútskin

Quan niệm thơ

Thơ thế kỷ 21

Thời thượng

Tiếng ru

Tiếng vang

Tôi viết cho người…

Xe tang qua nhà

Các bài thơ công bố sau

Hai tên

Hầm rượu nho

Lý do

Vòng lửa

Xe cháy

Xuân trong bom

 

 

Một số bài thơ của Nhà thơ Chế Lan Viên

Ong và mật

Sân bay

Tay thứ mấy

Thay đổi

Thế kỷ

Tìm đường

Bánh vẽ

Cẩn thận

Chiều tin tưởng

Đoạn cuối thế kỷ

Đột ngột cây chiều

Giật mình

Gió đầu mùa

Khi cây chết

Tìm đường

Khoảng cách

Mùa ve

Ong và mật

Sân bay

Sân bay

Tay thứ mấy

Thay đổi

Thế kỷ

Tìm đường

Trừ đi

Xứ Lào

Bánh vẽ

 

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *