聖泉宴
披襟乘石磴,
列籍俯春泉。
蘭氣熏山酌,
松聲韻野弦。
影飄垂葉外,
香度落花前。
興洽林塘晚,
重岩起夕煙。
Thánh Tuyền yến
Phi khâm thừa thạch đặng,
Liệt tịch phủ xuân tuyền.
Lan khí huân sơn chước,
Tùng thanh vận dã huyền.
Ảnh phiêu thuỳ diệp ngoại,
Hương độ lạc hoa tiền.
Hứng hợp lâm đường vãn,
Trùng nham khởi tịch yên.
Dịch nghĩa
Vén áo ngồi lên bậc thềm đá,
Người trong bàn tiệc cúi xem suối xuân.
Mùi thơm hoa lan quyện vào rượu vùng núi,
Tiếng gió thông hoà với khúc nhạc nơi thôn quê.
Bóng soi dưới nước thấp thoáng bên ngoài đám lá rủ,
Hương bay theo tới trước những bông hoa rụng.
Hứng thú thấm đẫm lên rừng cây và mặt nước lúc chiều xuống,
Từ các lớp núi trùng điệp, khói hoàng hôn bay lên.
Vương Bột mùa xuân năm Tổng Chương thứ 2 (669) làm Hịch kê văn 檄雞文 bị Cao Tông trục xuất khỏi phủ Bái vương, từ tháng 5 bắt đầu chơi đất Thục, rồi Tử Châu. Bài thơ này sáng tác mùa xuân năm Tổng Chương thứ 3 (670), trong thời gian thực hiện chuyến du ngoạn này. Thánh Tuyền ở trong núi Huyền Vũ, nay ở đông nam huyện Trung Giang, tỉnh Tứ Xuyên
Bản dịch của Trần Tế Xương
Phất phơ tràng áo bước lên non
Ngoảnh lại bên đình lạch suối con
Bầu sánh cúc pha ba chén cạn
Vần lơi tùng thét mấy cung dồn
Lơ thơ bóng rủ ngoài cành lọn
Ngào ngạt hoa bay trước gió tuôn
Rừng vắng tà tà say ngắm cảnh
Lô xô len đá khói đùn đùn
Lộ tòng kim dạ bạch,
Nguyệt thị cố hương minh.